Sắc màu thu – Lắng đọng nỗi niềm Tam Nguyên Yên Đổ
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.
Bạch vân thiên tải không du du.”
(Thôi Hiệu – Hoàng hạc lâu)
Hạc vàng đã bay đi biền biệt tự bao giờ, bỏ lại lầu mơ để ngàn năm mây trắng vẫn cứ bồng bềnh trôi trong ngẩn ngơ nỗi niềm. Vâng! Một cánh “hạc độc” đã bay qua bầu trời buồn đau u uất rồi lặng lẽ hoá thân vào đám “mây côi” để trăm năm rồi còn lãng đãng, còn trầm lắng trong lòng người nỗi nhớ nhung da diết:
“Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”.
(Nguyễn Khuyến)
Còn gì buồn hơn nỗi đau của người dân mất nước, nỗi đau của nhà Nho đi tìm lý tưởng tôn thờ mà tất cả mờ mịt trong trời loạn, trong khói lửa đau thương. Đạo quân thần trở thành trò hề giữa sân khấu lộ thiên, lòng son sắt kia của cụ Tam Nguyên vẫn cứ khắc khoải như “tiếng cuốc gọi hè” mà thương cho vận nước, cho nền Nho học chìm vào bóng tối điêu tàn. Nguyễn Khuyến, bậc đại Nho cuối cùng của thế kỷ XIX buồn đau u uất đã khép lại một thời đại thi ca, khép lại một dòng văn học trung đại Việt Nam sau một chặng đường dài 10 thế kỷ đầy thăng trầm, từ ánh hào quang rực rỡ của “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt) đến hào khí Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), qua vùng nhiễu nhương của Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), ghé nỗi đau đời của cụ Nguyễn Du “Địa địa xứ khứ giai Mịch La”, lên miền trung nghĩa của cụ Đồ Chiểu va đau buồn khép lại :
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.”
(Nguyễn Khuyến)
Văn học trung đại Việt Nam ra đời với hào khí của kỷ nguyên độc lập, tự chủ và kết thúc trong niềm đau của dân tộc mất nước.
Trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc trung học đã dành sự trang trọng đối với Nguyễn Khuyến. Nhiều bài thơ được học chính thức, nhiều bài thơ được giới thiệu đọc thêm. Dẫu những bài thơ trên chưa phải đặc trưng cho toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông, hơn nữa chất trữ tình sâu lắng của bậc túc Nho được thể hiện một cách kín đáo trong “ý tại ngôn ngoại” nên việc tiếp cận tác phẩm của cụ cũng là cả một nghệ thuật, đôi khi không phải chỉ là những cảm nhận trực quan, khả năng liên tưởng mà còn cả khả năng suy tưởng sâu sắc qua từng từ ngữ, hình ảnh thơ để tìm trong đó cái “hữu thanh mà như vô thanh”, “động vang mà lại rất tĩnh”. Rồi trong cái bề mặt tưởng chừng tĩnh lặng kia lại nghe được những động vang sôi sục cứ cuồn cuộn chảy mãi trong lòng cụ để hiểu được tiếng thơ lắng đọng tiếng lòng xót xa, bất lực chảy mãi đến ngàn sau.
Thơ Nguyễn Khuyến là cả một công trình kiến trúc nghệ thuật ẩn giữa cánh rừng nguyên sinh đại ngàn, là vẻ đẹp cô thiếu nữ không phấn son mà sao ánh mắt, nét mày, cử chỉ quê mùa chân chất ấy cứ rung động lòng người. Không tô vẽ, không cách điệu, ngôn ngữ thơ thật dung dị như cảnh làng quê yên ả của vùng chiêm trũng Hà Nam mà âm vang của từng câu chữ cứ quặn thắt, cứ sâu xoáy trong lòng người cả niềm đau trần thế, cả cơn nước lụt nhân tình, cả sắc màu thu trong hoài niệm và cả nỗi lòng đau đáu đến bất lực của kẽ sĩ thời mạt vận ôm nỗi đau đời mà hoá thân vào sắc màu thu đã chết tự bao giờ.
Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin trình bày những suy nghĩ còn hạn chế của mình để góp phần hiểu thêm về màu sắc thu không trong thơ Nguyễn Khuyến để góp phần phục vụ cho việc dạy học cũng như là một cách bày tỏ nỗi lòng, thắp một nén hương gửi theo gió mây ngàn phiêu lãng tưởng niệm cánh “hạc độc” của thi ca Việt Nam.
Làm nên cái độc đáo, tạo ra cái đặc sắc có tính chất Nguyễn Khuyến thì phải kể đến những tác phẩm viết về nông thôn, phản ánh sinh động và chính xác cái nhìn hiện thực nông thôn Việt Nam đương thời của nhà thơ Hà Nam” (Thơ văn Nguyễn Khuyến – Hoàng Hữu Yên – NXB giáo dục 1984). Còn Xuân Diệu nhận định: “Ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến nhìn gộp chung lại là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật nôm, là Việt Nam”.
Vậy thì: Một điều không thể phủ nhận bộ ba “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh” là những bài thơ vào loại đẹp nhất và hay nhất trong thi ca cổ điển Việt Nam.
Tự bao giờ, mùa thu vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân:
“Ngô đồng nhất lạc dịêp
Thiên hạ cộng tri thu.”
Văn học trung đại miêu tả mùa thu trong nghệ thuật ước lệ:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.”
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Cái “màu quan san” của Nguyễn Du sao buồn tê tái dẫu có sáng tạo song vẫn chưa thoát khỏi khuôn sáo ước lệ của văn học cổ. Ngay cả văn học hiện đại Bích Khê cũng chưa thoát khỏi xác ve của mùa thu cũ:
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.”
hay của Nguyễn Bính: “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Nhà thơ cảm nhận trực tiếp cái sắc màu thời gian chuyển hoá từ xanh sang vàng, sự chuyển đổi của quy luật tự nhiên như con tằm ăn lá dâu. Sắc thu riêng của Xuân Diệu lại rất mới:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
(Đây mùa thu tới)
Cái buồn của liễu rũ, ngàn giọt lệ nhỏ xuống đời vẫn không làm mất tiếng lòng ngân vang, reo vui, hân hoan chào đón mùa thu. Sắc màu vàng kia không còn là biểu trưng cho sự tàn úa, héo hắt mà là cả một công trình nghệ thuật của thời gian, của tạo hoá. Nguyễn Khuyến là con người của buổi giao mùa từ cổ trung đại sang cận hiện đại cho nên cách viết của ông có những âm ba của mùa thu văn học trung đại song có những nét rất mới, rất khác tạo nên tính cách riêng thật duyên dáng không nhầm lẫn vào đâu được. Ba mảng trời thu được kết nhau như kiểu bức tranh tứ bình: ngư, tiều, canh, mục hay tùng, cúc, trúc, mai. Có điều lạ là Nguyễn Khuyến chỉ bố trí 3 bức tranh Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm và đã tạo nên thế đứng rất riêng trong thi đàn.
Cả ba bài thơ được mở ra trong sắc màu xanh trong của bầu trời, của cuối làng quê bình dị:
“Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Thu điếu)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”
(Thu ẩm)
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao”
(Thu vịnh)
Cùng một mùa thu, cũng một cụm từ “xanh ngắt” nhưng ba sắc màu thu như ba cung bậc khác nhau. Cái màu xanh ngắt vòi vọi của từng mảng mây trời chồng chất nhau mấy từng cao như nỗi buồn sâu thẳm, hun hút. Đặng Trần Côn cũng có viết:
“Mạch thượng tang, mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thùy đoạn tràng.”
(Chinh phụ ngâm khúc)
Ngàn dâu xanh, rồi lại ngàn dâu xanh cứ nối tiếp nhau trong cảnh xa cách muôn trùng để tình chàng ý thiếp như đứt từng khúc ruột.
Trong sâu lắng tâm hồn, trong nỗi cô đơn mênh mang của con người, trước vũ trụ Huy Cận có viết:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
(Tràng giang)
Nỗi buồn của Huy Cân là nỗi buồn của con người bé nhỏ trước vũ trụ bao la. Cái bất lực của con người trước thời thế. Thân phận bèo dạt của con người trong bến bờ vô định. Cái buồn của mặt đất mênh mông và cái buồn cao vút của bầu trời, không biết nỗi buồn nào hơn?
Trở lại “trời thu xanh ngắt mấy tầng cao“, ở miền Bắc vào thu khí trời se lạnh, bầu trời rất ít mây, chỉ hiện hữu khoảng không bao la đó là cái màu xanh ngắt và sâu thẳm như từng mảng xanh cứ đan chồng vào nhau. Bầu trời kia xa vời quá, hun hút quá như cõi sâu thẳm tấm lòng nhà thơ cho nỗi buồn chất chồng. Tính thẩm mỹ của văn chương thể hiện ở cái hồn của câu chữ. Không một chút mây, không một gì cả, chỉ có màu xanh nối tiếp chồng chất để kéo bầu trời xa, xa mặt đất, xa ngút ngàn đến chốn vô định. Để con người trở nên chơ vơ, trơ trọi, lạc loài chấp chới.
Cái xanh ngắt trong Thu ẩm là cái xanh đến tuyệt đối như cả một màu xanh trải đến vô tận, không một màu sắc khác. Cái xanh tinh khiết không pha lẫn lại càng tôn tạo nên cảnh cô tịch tẻ nhạt của bầu trời. Nguyễn Du, khi miêu tả tâm trạng cô đơn của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng chọn sắc màu xanh xanh nhàn nhạt vô vị:“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Những ngày tháng không tên ở lầu Ngưng Bích ấy, Thúy Kiều hết nhớ, thương, buồn, vô vọng, tuyệt vọng cứ lần lượt hiện ra nên sắc màu của mây trời và cây cỏ mặt đất cũng đã hòa nhập trong sắc màu “xanh xanh” hay chính con người buồn đến mức độ không thèm phân biệt sắc màu của mây trời và sắc xanh của cỏ cây. “Thiên địa đồng quy” trong cái buồn. Mùa thu trong đáy mắt đỏ hoe của ông già say rượu (Thu ẩm) đang tự hỏi, tự khám phá bên trong vô tình ai đã tạo nên sắc màu “xanh ngắt” ấy, cái sắc màu đã có từ thuở tạo thiên lập địa hay có từ lúc nhà thơ hiện hữu trần đời để mà chiêm nghiệm nỗi buồn đau đáu của thế kỷ nước mất nhà tan. Cái màu xanh kia bổng trở nên côi cút, sắc màu như chính nhà thơ bơ vơ trong cõi trần ai gió bụi để mà thương tiếc ngậm ngùi. Câu hỏi tu từ không cần một lời giải đáp. Mà giải đáp để làm gì kia chứ ? Một câu hỏi được ném vào hoang trống, ném vào cõi không bao la của vũ trụ mà tiếng vọng lại như đau xé lòng nhà thơ. “Ai?”, “Ai nhuộm?”. Có vội vàng quá chăng khi quy kết “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” (Chinh phụ ngâm). Có vội vàng chăng khi xem đó là nỗi đau thời thế trong niềm bất lực tộc cùng để rồi đôi mắt lão rưng rức không vầy vẫn cứ đỏ như hạt bụi vô hình nào đó rơi vào đáy mắt xót xa. Màu xanh được trải ra theo chiều rộng dàn trải mênh mông thấm vào hồn nhà thơ thành câu hỏi đắng cay!